CON CÁ BỐNG DƯỚI GIẾNG THẦN
Nguyễn Ngọc Phúc
Bố mẹ tôi có 5 người con, 3 gái 2 trai. Tôi là con trai út trong gia đình.
Bây giờ, quanh tôi chỉ còn có 1 anh và 2 chị còn lại. Bố mẹ tôi không bao giờ nói cho tôi biết về người chị cả của tôi. Những gì tôi biết về chị cả đều qua các chị và anh còn lại.
Chuyện người chị cả này hoàn toàn gần như một chuyện cổ tích bởi chuyện kể là chị đã lấy chồng và theo chồng đi xa trước khi tôi sinh ra đời vào năm 1945.
Bao giờ và ở đâu? Tôi cũng chẳng biết.
Có nghĩa là ngày tôi mở mắt chào đời năm 1945 cho tới 30 tháng 4 năm 1975, 30 năm đã trôi qua trong đời, tôi vẫn chỉ biết tôi có một người chị cả, đi lấy chồng ở xa và chẳng bao giờ biết mặt, ngay một bức hình tôi muốn được xem, cũng không có.
Vậy thì tôi có gì để kể lể về người chị này trong 30 năm qua đi này?
Hoàn toàn không có gì.
Nhớ thương? Không. Đi hỏi thăm? Không. Đi tìm kiếm? Không. Thắc mắc? Không. Buồn? Cũng không luôn.
Chuyện cổ tích luôn luôn là một giấc mơ thật đẹp của tuổi thơ.
Khi trẻ thơ, tôi vẫn mang trong trái tim hai chữ Chị Cả với tất cả yêu thương mong đợi từ khi biết ngoài 3 anh chị kế tôi, tôi còn có một người chị lớn nữa.
Chỉ có thế thôi.
Câu chuyện có lẽ sẽ chẳng có gì đáng nói ở đây vì toàn là không và không nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại là bắt đầu cho những cái “có” trong cuộc đời của tôi về người chị cả này.
Năm 1968, tôi ra đại học Văn Khoa Saigon và bị gọi nhập ngũ cùng với tất cả bạn bè cùng khóa ra trường năm đó.
Chúng tôi cùng rủ nhau đi trình diện một ngày ở trung tâm huấn luyện Quang Trung. Lần lượt qua những phòng khám sức khỏe, ai cũng chỉ được mặc quần sà loỏng và phòng cuối cùng là hội đồng y khoa tuyên bố kết quả giám định sức khỏe.
Bạn bè tôi gần như 100% được tuyên bố “đủ sức khỏe” .
Từng người bước ra ngoài phòng để bắt đầu đặt dấu chân đầu tiên vào đời quân ngũ. Nhìn mọi người với vẻ ưu tư trên khuôn mặt nhưng tôi không thấy và không nghe một tiếng xì xào hay than vãn gì ngoài trừ tiếng nói của các sỹ quan trong hội đồng khi đọc hồ sơ khám sức khỏe của tân binh sắp nhập ngũ.
Trước mặt hội đồng y khoa, tên tôi được gọi, tôi bước ra và đứng yên để chờ nghe quyết định của hội đồng. Họ đọc hồ sơ tôi hơi lâu hơn các hồ sơ khác. Tôi nghĩ có chuyện gì đây nhưng vẫn đứng yên chờ đợi. Cuối cùng, vị sỹ quan ngồi giữa bàn hỏi tên tôi xong tuyên bố tôi được “ Miễn dịch vì lý do sức khỏe. Chân trái có tật.”
Hội đồng đóng hồ sơ tôi lại và chuẩn bị đọc hồ sơ kế tiếp thì tôi dơ tay xin nói.
Hội đồng ngạc nhiên và hỏi tôi chuyện gì vì cái quyết định miễn dịch này là một cái tin hoàn toàn vui và thiệt tốt, họ không hiểu tôi có thắc mắc gì.
Tôi nói:
– Tôi xin tình nguyện nhập ngũ.
Tôi nhớ tất cả sỹ quan trên bàn hội đồng y khoa trung tâm 3 nhập ngũ đều cười ùa lên vì có lẽ chả bao giờ họ nghe được câu nói lạ lùng này trong phòng khám sức khỏe.
Chắc họ nghĩ tôi đùa hay bị chạm giây chăng?
Không. Tôi không nói đùa và cũng không bị chạm giây. Vị sỹ quan chủ tịch hỏi tôi về lý do tại sao xin tình nguyện.
Tôi trả lời ngay:
– Tôi muốn được nhập ngũ như các bạn bè của tôi hôm nay.
Câu trả lời của tôi không bao giờ được chuẩn bị và cũng không bao giờ được suy nghĩ trước. Ở ngày hôm đó và vào lúc đó, thấy bạn bè mình đi lính, mình cũng hăng tiết vịt xin đi. Thế thôi.
Nếu nói tôi xin tình nguyện đi lính vì nào là do lý tưởng hay vì lòng yêu nước hoặc thích đời quân ngũ, chắc tôi hơi loạn ngôn với đời để trở thành anh hùng rơm hay tiểu thuyết hóa đời trai thời chiến do ảnh hưởng của phim ảnh và chuyện tình đời lính lãng mạn ướt át trong văn chương báo chí. Nhưng sự thục, tôi đã từng có những giấc mơ được khoác lên mình bộ áo bay của phi công, đeo trên mặt cặp kiếng Ray Ban và nhếch miệng cười với một tí ria mép như Clark Gable khi đứng trên chiếc cánh của khu trục cơ AD6.
Đó là bức hình của một thằng bạn thân sau khi đậu tú tài 1, đi không quân gửi về cho tôi trong thời gian huấn luyện ở bên Mỹ. Tấm ảnh nó đứng trên cánh máy bay AD6 với một điếu thuốc trên môi vẫn luôn luôn là nỗi thèm thuồng của tôi ở tuổi trai trẻ thời chinh chiến này.
Thế nhưng vị sỹ quan ngồi giữa hội đồng cười hề hề hỏi tôi:
– Anh có chạy được không?
Tôi đáp:
– Dạ chạy được.
Viên sỹ quan này nói tiếp:
– Tôi muốn nói chạy dã chiến vài cây số với ba lô súng đạn trên vai.
Tôi ngập ngừng đắn đo, nói nhỏ:
– Tôi không biết.
Vị sỹ quan này bèn lên cao giọng với nụ cười ruồi trên môi và phán ngay một câu:
– Thôi, về đi cha nội.
Câu nói tếu làm mọi người trong phòng cười ồ lên.Tôi chết đứng đi trong vài giây đồng hồ.
Thế là chấm dứt một giấc mộng không bình thường của tôi.
Nếu giấc mộng này trở thành sự thực hôm đó thì có lẽ tôi không có câu chuyện về người chị cả của tôi để kể ra đây với đời hôm nay.
Sự thực này hoặc sẽ đưa tôi về nằm nghỉ vĩnh viến ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa hay sẽ còng lưng cuốc xẻng ở một trại tù lao động học tập cải tạo nào đó, nơi đèo heo hút gió hay tận vùng núi hẻo lánh xa xôi miệt biên giới Tầu, nơi cuộc đời sẽ luẩn quẩn chạy quanh với nhớ mong chết chóc, bệnh hoạn, sợ hãi, đói khát, canh gác và trả thù rình rập suốt 24 tiềng đồng hồ mỗi ngày và hoặc tôi, cuối cùng, có thể đang ngày đêm cầy bừa trên xứ lạ quê người xa xôi đâu đó trên quả địa cầu với một cái tên Tây hay Mỹ Robert hay John gì đó.
Những hay và hoặc này sẽ là đoạn kết về câu chuyện cổ tích của tôi nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1075 đã đưa tôi về một câu chuyện cổ tích mới, câu chuyện không có cá bống dưới giếng thần mà mẹ tôi hay kể cho tôi nghe khi còn bé.
Tôi vẫn biết gia đình tôi có ít tin tức về chị cả từ sau khi chị lấy chồng đi xa khoảng năm 1942, 43 vì từ đấy, không có cợ hội gặp nhau.
Trong năm 1954, song song với cuộc di cư vĩ đại của hơn 1 triệu đồng bào từ miền Bắc di cư vào Nam, lúc đó, chị và gia đình chồng đang sống ở Thái Lan từ khi đi lấy chồng và theo chồng.
Chồng chị là người đi theo Việt Minh trước năm 1945 ở Lào, cho nên, theo lời dụ dỗ của Việt Minh, đã bỏ Lào chạy sang Thái Lan tỵ nạn trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Khoảng năm 1953-54, Chính phủ Thái Lan khuyến khích các cộng đồng người Việt tỵ nạn ở Thái nên hồi hương về Việt Nam sống vì đất nước đã được phân chia hai miền Nam Bắc rõ rệt với hai chính thể khác nhau.
Saigon hay Hanoi? tùy gia đình, họ sẽ giúp đỡ cho về.
Nhóm người theo Việt Minh gồm có chồng chị ở Thái Lan đã quyết định đi về Hanoi thay vì Saigon. Tin cuối cùng như vậy là gia đình chị đã từ Tháii Lan về ở Hanoi sau năm 1954.
Một ngày nào đó sau 30 tháng 4 năm 1975, tôi nghe phong phanh là chị sẽ từ ngoài Bắc vào Saigon hội ngộ với gia đình.
Tin đến với tôi với chút ít xôn xao nôn nóng trong lòng hơn tôi tưởng.
Ngày xưa chuyện cổ tích của tôi có con cá bống và giếng thần, chị cả tôi là một tưởng tượng ôi thật nên thơ. Tôi thầm mơ một ngày nào đó, bà tiên cho tôi gặp chị, chắc là mừng đến rơi nước mắt mới được nhưng ngày nay, chỉ có bo bo, khoai mì và nón cối bên cạnh.
Mỗi đêm, tôi không có một giấc ngủ yên dài với mộng đẹp bởi họp hành, tổ dân phố, kiểm tra với tên công an khu vực đi rảo thường xuyên khắp xóm giềng. Ban ngày, tôi không có thời gian để mơ mộng khi nhìn quanh chỉ thấy nỗi lo âu, sợ hãi và mệt mỏi của bố mẹ, anh chị, hàng xóm và mọi người.
Chiếc loa phát thanh đầu xóm đặt trên cột điện là tiếng rống của một con quái vật rừng rú ra rả nghe đến phát điên lên mỗi sáng sớm, trưa nóng hay chiều về.
Bảo tôi hãy chuẩn bị những giọt nước mắt cho một cuộc hội ngộ tương phùng lần đầu tiên trong đời được gặp người chị cả với bo bo, nón cối và tiếng quái vật như vậy, tôi nghĩ có lẽ mình phải tập dợt dữ lắm, nhứt là để đón chờ một người chị trong giấc mờ trở về với một ông chồng là……một đảng viên Cộng Sản.
Từ ngày nghe tin phong phanh đó, tôi vẫn đi làm bình thường ở thư viện Quốc Gia đường Gia Long, Saigon. Sự phong phanh mỏng đến độ nó không có chỗ đứng được trong trái tim của tôi.
Hằng ngày, tôi phải lo dọn dẹp thư viện, sắp xếp, chọn lựa sách báo để làm danh sách báo cáo cho những người từ rừng núi Trướng Sơn mới về muốn biết Thư Viện ở đây chứa cái gì?
Công việc nhàm chán nhưng vẫn phải làm. Chiều đến là chỉ mong hết giờ để về nhà không phải là để nghỉ mệt mà chỉ muốn ra khỏi cái nơi mình không ưa này, tránh khỏi phải nhìn những bộ quần áo mầu cứt ngựa, nón cối, dép râu và súng lục lủng lẳng bên hông với giọng nói miền Bắc quê mùa chát chúa lỗ tai tôi mà chưa bao giờ được nghe.
Nhìn và nghe thấy những cái không ưa trong 8 tiếng đồng hồ mỗi ngày quả thật là quá nhiều cho một ngày của tôi.
Một buổi chiều nào đó, tan sở về, chán chường, tôi đạp xe lang thang khắp phố, chả biết đi đâu và rồi định ghé lại nhà một người bạn chơi để giết thì giờ.
Tới nơi, nó không có nhà. Tôi đành lên xe cuốc về nhà.
Đến cửa nhà, bỗng nghe nhiều tiếng lao xao trong nhà, tôi hơi ngạc nhiên và chẳng hiểu chuyện gì xẩy ra? Có vài “giọng nói miền Bắc quê mùa chát chúa lỗ tai.” trong nhà tôi vọng ra. Cái âm thanh này không phải là tin tốt cho tôi vì tôi đã phải chịu khổ để nghe nó mỗi ngày 8 tiếng từ mấy tháng trời nay cộng với khẩu súng lục lủng lẳng bên hông.
Làm sao bây giờ nó lại ở trong nhà tôi giờ này?
Tôi hồi hộp đẩy xe bước vào. Trong nhà có khá nhiều người hơn thường ngày, tôi nhìn thấy bố mẹ tôi, hai chị lớn và anh trai của tôi và vài người lạ.
Tất cả tiếng nói và tiếng động đều ngưng lại tức thì. Mọi người trong nhà quay ra nhìn tôi, người mới bước vào dựng xe. Trong vài người lạ đó, một người đàn bà hơi đen đủi, búi tó, dáng thâm thấp, tuổi chừng các chị tôi, mặc quần dài đen và áo bà ba nâu nhạt, bước ra dang hai tay đón tôi.
Tôi nghe một tiếng nói nhỏ của bà đó, một “giọng nói miền Bắc quê mùa chát chúa lỗ tai.”
– Em.
Hình minh họa
Tôi hơi sững sờ và chưa kịp trả lời một tiếng nào thì cả thân tôi đã nằm trong vòng tay của bà, người vừa gọi tôi bằng em.
Tôi vẫn hai tay buông xuôi trong vòng tay của bà, người đứng thẳng, không nói được một tiếng nào và trong chớp nhoáng, tôi biết bà đó là ai.
Người chị cả của tôi.
Tôi lặng im, không một cử động và không một tiếng trả lời. Tôi biết thân tôi đang rung động với hai cánh tay của “ chị tôi”, bên vai tôi, có một khuôn mặt đang nức nở khóc và áo tôi bắt đầu ướt một bên.
Chữ đầu tiên, tôi mở miệng nói nhỏ:
– Chị cả.
Tôi nghe tiếng trả lời với nước mắt:
– Ừ! chị đây, em là Nam phải không?
Tôi nghe nhiều tiếng nói lao xao trong nhà nổi dậy;
– Đúng! Nó đấy, Nam đấy.
Tôi bắt đầu định đưa hai tay lên cầm hai tay chị nhưng đôi mắt của tôi không nhìn chị vì đằng sau chị, có một vóc dáng của một người đàn ông với chiếc nón cối trên đầu.
Nước mắt tôi chưa kịp chảy ra thì sự xúc động của tôi bị tắc lại tức thì bởi cái nón cối.
Hình minh họa:
Tôi nhìn người đàn ông này, ông ta trông khá già, người tầm thước và xương xẩu, da vẻ hơi nhăn nheo, không đến nỗi đen, không mặc quần áo bộ đội mầu cứt ngựa nhưng có sặc nét …”Cộng Sản” trên đó.
Cái nét tôi cảm thấy đó không biết từ đâu ra, tại bởi cái nón cối? hay tại bởi khuôn mặt? hoặc do tôi bị dị ứng?
Cái sặc nét Cộng Sản đó đang đứng trước mặt mình, tôi nghe tiếng chị nói:
– Anh ơi! Nam đấy
Tôi vẫn đứng yên. Không gật đầu chào và cũng không một cử chỉ vồn vã hay thân mật hoặc một lời nói xã giao ngoại trừ một nụ cười nhỏ trên môi để trả lời cho chữ “ Nam đấy!”
Nhà tôi đã có một biến đổi lớn và thêm người nhưng đáng lẽ ra, phải có một sự ồn ào và vui tươi nhưng buồn thay cho tôi, thời gian vẫn lặng lẽ như những ngày tháng kế tiếp mà chẳng đem một sự thay đổi nào khác lạ cho tôi.
Tôi vẫn chưa tìm được một đầu môi câu chuyện nào để được ngồi chung với chị cả, để được nhìn thấy rõ khuôn mặt chị mà 3,40 năm qua tôi không biết, để được nghe chị nói về những ngày tháng xa cách và về cuộc đời của chị.
Tuy thế, nhà tôi cũng có thêm tiếng cười đùa và tiếng nói lao xao giữa chị cả và các anh chị lớn của tôi. Tôi vẫn lắng nghe tiếng chị cả tôi và tiếng mọi người kể lể, trò chuyện hỏi han với nhau và nói chuyện gần chuyện xa nhưng tôi không hiểu sao mình vẫn đứng ngoài câu chuyện của gia đình, vẫn âm thầm lặng lẽ đứng nghe từ xa mà không có ý định nhảy vào chuyện trò và nhất là không bao giờ được gọi tên ra để chính thức cho phép được góp chuyện.
Tôi tự hỏi mình có một người chị lạ hay là mình là một đứa em lạ mà ở cả hai bên bờ, không có một nhịp cầu nào được ai bắc qua nối lại với nhau, Cho nên, tôi đành chọn chuyện không lại gần, không hỏi thăm và cũng bởi cảm thấy không biết bắt đầu bằng như thế nào vì giữa tôi và người chị cả, không có một hình ảnh nào của cuộc đời, không có một kỷ niệm nào ở quá khứ để khơi chuyện với chị. Ba mẹ tôi cũng không kể cho tôi nghe nhiều về chị ngoài câu chuyện ngắn ngủi là chị đã đi lấy chồng và theo chồng trước khi tôi được sinh ra đời.
Thế thôi.
Tiếng cười đùa và lao xao trong gia đình không kéo dài được lâu sau một vài tuần đầu.
Tôi bắt đầu cảm thấy có chuyện hơi lạ lùng đang xẩy ra.
Cho đến một buổi tối cuối tuần, nằm trong phòng, đọc sách truyện lăng nhăng, tôi thoáng nghe tiếng đối đáp từ dưới nhà bếp của các anh chị tôi với chị cả.
Tiếng chị cả:
– Tháng 9 năm 1969, nghe tin bác Hồ mất, chị và mọi người ngoài đó khóc quá trời.
Tôi nghe tiếng chị ba tôi tiếp thêm:
– Trong này, em và mọi người cũng khóc.
Chị cả tôi chắc cảm động bèn hỏi dồn:
– Thế hả, thật sao?
Tiếng chị ba tôi nói ngay:
– Ừ thật đấy. Khóc vì mừng bác chết. Sắp hết chiến tranh.
Nghĩa là mỗi một bà chị đã khóc nhưng khóc bởi một lý do hoàn toàn ngược nhau chứ không phải khác nhau.
Và cứ như thế, sau 30 tháng 4 năm 1975, chiến tranh Nam Bắc đã kết thúc ờ ngoài đời nhưng cuộc chiến ấy lại mới bắt đầu xẩy ra trong gia đình tôi trên mọi chiến tuyến giữa những người cùng chung cha và mẹ.
Tôi không rõ anh chị cả đã ở lại đây bao lâu và cũng không nhớ ngày nào anh chị chia tay với gia đình để trở về miền Bắc hay có một lời từ giã giữa tôi và anh chị được trao đổi trước khi anh chị ra về.
Con cá bống dưới giếng thần nay đã biến thành người trên trần gian và chả bao giờ quay lại giếng xưa nữa.
Chuyện cổ tích luôn luôn là một giấc mơ thật đẹp của tuổi thơ.
Nguyễn Ngọc Phúc.
Kỷ niệm 48 năm mất nước
Thank you.
Phil Nguyen